blogqn.wap.sh - Trang tải game, phần mềm ứng dụng và giải trí miễn phí!
BonBa9x.Wap.Sh
Thế Giới Giải Trí Cho Mobile
Cho Bạn Và Cho Tôi

Old school Easter eggs.
Truyện thiếu nhi

Chương 19

Một cuộc trò chuyện về tiền nong

Hầu như trong đời ai cũng có một sự kiện làm thay đổi cả cuộc sống của họ. Ngày mà Sam Râu Xồm đến vườn bách thú Philadelphia là một bước ngoặt trong đời cậu. Cho đến ngày hôm đó cậu vẫn chưa hề quyết định lớn lên sẽ làm gì. Nhưng ngay giây phút đầu tiên nhìn thấy vườn bách thú, mọi nỗi băn khoăn của cậu biến sạch. Cậu hiểu rằng mình muốn được làm việc ở một vườn bách thú. Sam yêu tất cả những gì sống động, và vườn bách thú là một nhà kho khổng lồ chứa các sinh vật - gồm mọi loài động vật bò, trườn, chạy, nhảy, bay hoặc sống chui nhủi. Sam say mê ngắm nhìn tất cả. Nhưng cậu còn phải giải quyết vấn đề của Louis trước đã. Cậu phải cứu Serena thoát cảnh tù đầy. Vì vậy cậu nhặt ba lô và túi ngủ lên, đi đến Nhà Chim và bước vào phòng làm việc. Dáng cậu vươn cao và thẳng, như thể cậu đang đi trên đường mòn trong rừng. Ông tổ trưởng có cảm tình với vẻ bề ngoài của Sam và để ý thấy rằng trông cậu hơi giống người Anh-điêng.
- Vậy ra cậu là Sam Râu Xồm, - khi thấy Sam đứng trước mặt, ông tổ trưởng nói. - Cậu đến đây có việc gì?
- Để bảo vệ tự do, - Sam trả lời - Cháu nghe nói rằng bác có ý định cắt cánh của một con thiên nga. Cháu đến đây để xin bác đừng làm điều đó.
Sam ngồi xuống và họ trò chuyện suốt cả tiếng đồng hồ. Sam khẳng định với ông tổ trưởng rằng Louis là bạn cũ của cậu. Cậu kể lại chuyện khám phá ra một cái tổ thiên nga ở Canađa khoảng ba năm về trước, về chuyện Louis đã bị câm từ khi mới ra đời như thế nào, chuyện Louis đến một trường ở Montana để học đọc và học viết, chuyện bố Louis, bác thiên nga già, đã ăn trộm chiếc trôm-pét, chuyện đi làm cho trại hè Kookooskoos và cho Thuyền Thiên Nga ở Boston. Ông tổ trưởng lắng nghe rất chăm chú, nhưng ông ta không chắc có tin nổi một lời nào trong câu chuyện kỳ lạ này hay không. Rồi Sam giải thích đề xuất của cậu về việc cho phép Serena tự do bay đi thay vì biến cô thành một con chim bị giam cầm. Cậu nói rằng cậu nghĩ rằng đó là một sự sắp đặt thuận lợi cho vườn bách thú, bởi vì bất cứ khi nào họ muốn có một con Thiên Nga Kèn nhỏ thì Louis sẽ tặng cho họ một đứa con của chú. Ông tổ trưởng bị lời đề nghị hấp dẫn.
- Ý cậu muốn nói rằng cậu đi suốt từng ấy dặm đường đến Philadelphia để giúp đỡ một con chim ư?
- Vâng, thưa bác, - Sam trả lời. - Cháu sẽ đi bất kỳ nơi nào để giúp đỡ một con chim. Vả lại, Louis là trường hợp đặc biệt. Chú ấy là bạn cũ. Chúng cháu đã từng học cùng trường. Bác hẳn cũng phải công nhận bạn ấy là một con chim khác thường.
- Chắc chắn là thế rồi. - ông tổ trưởng nói. - Những buổi hòa nhạc vào các chiều chủ nhật của cậu ta là sự kiện có sức thu hút chưa từng thấy ở vườn bách thú. Có lần chúng tôi nuôi một con vượn người tên là Tre - giờ thì nó chết mất rồi. Tre rất cừ nhưng Louis thậm chí còn thu hút được nhiều khách tham quan hơn là Tre. Sư tử biển của chúng tôi cũng thu hút được đông khách, nhưng không gì có thể so sánh được với Louis khi cậu ấy chơi trôm-pét vào các buổi chiều chủ nhật. Mọi người như điên lên vì vui thích. Và âm nhạc cũng tốt cho động vật - nó xoa dịu chúng và làm cho chúng quên đi những lo lắng thường ngày. Khi Louis ra đi tôi sẽ nhớ cậu ấy. Cả vườn bách thú cũng sẽ nhớ cậu ấy vô cùng. Ước gì cậu ấy ở lại ngay tại đây cùng với vợ - nếu thế thì thật tuyệt vời.
- Louis sẽ héo hon trong cảnh tù đày. Bạn ấy sẽ chết mất, - Sam nói. - Bạn ấy cần những chốn hoang dã - những cái hồ nhỏ, những vùng đầm lầy vào mùa xuân với cỏ đuôi mèo, chim sáo cánh đỏ, với những dàn đồng ca của ếch nhái, những tiếng kêu của chim lặn gavia vào buổi đêm. Louis đang theo đuổi một giấc mơ. Tất cả chúng ta ai cũng phải theo đuổi một giấc mơ. Xin bác hãy để cho Serena ra đi! Xin bác đừng cắt cánh của cô ấy!
Ông tổ trưởng nhắm mắt lại. Ông ta đang nghĩ về những cái hồ nhỏ nằm sâu trong rừng, về sắc màu của những bụi cây hương bồ, về những âm thanh của buổi đêm và về dàn đồng ca của ếch nhái. Ông ta nghĩ về những cái tổ thiên nga, những quả trứng, rồi tới khi trứng nở và bầy thiên nga con xếp hàng một theo chân bố. Ông nhớ lại những giấc mơ mà ông đã từng ấp ủ thời ông còn trẻ.
- Thôi được, - bỗng nhiên ông nói. - Serena có thể đi được. Chúng ta sẽ không cắt cánh nó. Nhưng làm thế nào mà tôi biết chắc rằng Louis sẽ mang đến cho tôi một con Thiên Nga Kèn nhỏ khi tôi cần? Làm thế nào mà biết được liệu cậu ta có giữ lời hứa hay không?
- Bạn ấy là một con chim biết trọng danh dự, - Sam nói. - Nếu như bạn ấy không trung thực và giữ đúng lời, không tội gì mà bạn ấy lại phải đi làm và kiếm thật nhiều tiền để trả lại cho người chủ cửa hàng nhạc cụ món tiền nợ chiếc trôm-pét mà bố bạn ấy đã lấy trộm.
- Nhân tiện đây tôi cũng muốn hỏi luôn. Louis đã kiếm được bao nhiêu tiền rồi?
- Bạn ấy có bốn ngàn sáu trăm chín mươi mốt đô la và sáu mươi lăm xu, - Sam nói. - Chỉ mấy phút trước bọn cháu vừa mới đếm xong. Bạn ấy được trại Kookooskoos trả cho một trăm đô la tiền công thổi kèn hiệu, và đã tiêu mất sáu mươi xu tiền tem. Thế là bạn ấy đến Boston với chín mươi chín đô la và bốn mươi xu. Rồi ông chủ Thuyền Thiên Nga lại trả cho bạn ấy một trăm đô la tiền công để làm việc trong một tuần, nhưng bạn ấy đã tiêu mất ba đô la để puộc-boa cho những người phục vụ ở khách sạn nơi bạn ấy đã từng nghỉ một đêm ở đó. Vậy là khi đến Philadelphia bạn ấy có một trăm chín mươi sáu đô la và bốn mươi xu. Nhà hàng đêm trả cho bạn ấy mỗi tuần năm trăm đô la trong mười tuần, tính ra là năm ngàn đô la, nhưng bạn ấy phải trả phí môi giới hết mười phần trăm số tiền năm ngàn đô đó, và bạn ấy cũng tiêu hết bảy mươi lăm xu để mua chì phấn mới và bốn đô la để gửi điện tín cho cháu. Vậy nên tổng cộng số tiền là bốn ngàn sáu trăm chín mươi mốt đô la và sáu mươi lăm xu. Đối với một con chim như thế là quá nhiều rồi.
- Chắc chắn là thế rồi, - ông tổ trưởng nói. - Chắc chắn là thế rồi!
- Nhưng bạn ấy cũng sẽ trả tiền vé máy bay khứ hồi từ Montana đến Philadenlphia cho cháu. Vì thế món tiền sẽ giảm xuống chỉ còn bốn ngàn bốn trăm hai mươi đô la và bảy mươi tám xu thôi.
Ông tổ trưởng trông có vẻ choáng váng vì những con số này.
- Ngần ấy vẫn còn là quá nhiều đối với một con chim. - ông nói. - Cậu ta định làm gì với tất cả số tiền đó?
- Bạn ấy sẽ đưa cả cho ông bố, bác thiên nga già.
- Và ông này sẽ làm gì với chúng?
- Bác ấy sẽ bay đến cửa hàng nhạc cụ ở Billing và trao số tiền đó cho người chủ hiệu để trả món nợ ăn trộm chiếc trôm-pét.
- Đưa hết tất cả ngần ấy ư?
- Vâng.
- Nhưng một chiếc trôm-pét không đáng giá tới bốn ngàn bốn trăm hai mươi đô la và bảy mươi tám xu.
- Cháu biết thế, - Sam nói. - Nhưng chính cửa hiệu phần nào cũng bị hư hỏng. Bác thiên nga già đã đấm vỡ cửa sổ kính to và lao vào như bị ma đuổi. Bác ấy làm lung tung beng tất cả mọi thứ lên.
- Phải, - ông tổ trưởng nói. - Nhưng để sửa chữa tất cả mọi thứ cho tử tế cũng không tốn hết ngần ấy tiền.
- Cháu cho là không. - Sam nói. - Nhưng Louis không cần dùng đến tiền vào việc gì nữa, vì vậy bạn ấy sẽ đưa tất cả cho người chủ cửa hàng nhạc cụ.
Dường như chủ đề về tiền bạc khiến cho ông tổ trưởng rất quan tâm. Ông ta nghĩ không phải dùng tiền vào việc gì nữa thì sẽ vui biết bao nhiêu. Ông ngả lưng ra ghế tựa. Ông thấy việc một trong số những con thiên nga ông coi sóc lại có thể dành dụm được hơn bốn ngàn đô la và số tiền đó lại ngay ở ngoài kia, được đựng trong một túi tiền treo ngay ở cổ nó, thật khó tin quá.
- Nói đến vấn đề tiền bạc, - ông nói. - chim chóc dễ xử trí hơn con người. Khi một con chim kiếm được một số tiền, hầu hết số tiền đó không bị tiêu đến. Một con chim không phải đến một siêu thị và mua một tá trứng, một cân bơ, hai cuộn khăn giấy, đồ ăn tối, một lọ thuốc tẩy, một lọ cà chua sốt, một cân rưỡi thịt băm viên, một lọ đào thái lát mỏng, khoảng hai lít rưỡi sữa tươi đã khử chất béo và một chai dầu ô liu. Một con chim không phải trả tiền thuê nhà hay lãi suất vay nợ. Một con chim không bảo hiểm sinh mạng của mình với một công ty bảo hiểm và rồi cũng không phải đóng tiền bảo hiểm theo hợp đồng. Một con chim không có một chiếc ô tô và vì thế không phải mua xăng dầu, không phải trả tiền sửa chữa ô tô và không phải mang xe đến tiệm rửa xe và trả tiền rửa xe. Muông thú và chim chóc thật là may mắn. Chúng không phải suốt đời tích góp như con người. Người ta có thể dạy cho một con khỉ lái được một chiếc mô tô, nhưng tôi chưa bao giờ thấy có con khỉ nào lại ra ngoài và đi mua một chiếc mô tô được.
- Phải rồi. - Sam trả lời. - Nhưng cũng có loài vật thích tích góp các thứ, dù cho là chúng không trả bất kỳ cái gì cho những đồ vật đó cả.
- Chẳng hạn như...? - ông tổ trưởng hỏi.
- Con chuột, - Sam nói. - Một con chuột sẽ làm tổ, rồi thì nó sẽ tha về nhà đủ mọi thứ - những vật tầm tầm và những đồ rác rưởi. Nó vớ lấy bất kỳ thứ gì lọt vào mắt nó.
- Cậu nói phải - ông tổ trưởng nói. - Cậu nói hoàn toàn đúng, Sam ạ. Dường như cậu biết rất nhiều về loài vật.
- Cháu thích súc vật, - Sam nói. - Cháu thích được ngắm nhìn chúng.
- Thế thì hãy đi với tôi và chúng ta sẽ khám phá vườn bách thú, - ông tổ trưởng vừa nói vừa đứng lên. - Hôm nay tôi cũng cảm thấy không muốn làm việc thêm nữa. Tôi sẽ hướng dẫn cho cậu xem vườn bách thú.
Và cả hai cùng đi ra. Đêm đó, nhờ sự cho phép đặc biệt, Sam ngủ trong phòng làm việc của ông tổ trưởng. Cậu trải túi ngủ ra nền nhà và cuộn mình vào. Sáng mai máy bay sẽ đưa cậu quay trở về nhà. Tâm trí Sam đầy ắp những cái mà cậu đã được trông thấy ở vườn bách thú. Và trước khi tắt đèn, cậu lấy sổ nhật ký từ trong ba lô ra và viết một bài thơ. Nội dung nó như sau: Bài thơ của Sam Râu Xồm Trên khắp mặt đất và biển cả bao la. Vườn thú Philadelphia là chỗ dành cho ta. Có nhiều thứ để ăn và việc để làm, Có chim Fregat và có chuột trù tí hon; Có Chuột Vesper và có con Lười, Công bằng mà nói thì tôi thích cả đôi. Có gấu trắng và ngỗng Canađa Và những loài vật đến từ mọi nẻo xa. Có những loài chưa bao giờ bạn được ngó qua Như gấu potôt và như chồn gulo, Thực sự bạn phải tới thăm vườn bách thú Để được tận mắt thấy một chú chuột túi con Hoặc một con đama, hay linh dương đầu bò, đuôi trắng. Có những chú chim lạ bên bờ hồ xanh trong, Có chó sói và cả rắn mũi lợn. Có những loài động vật hấp dẫn vô cùng, Chẳng hạn như chim ruồi và bầy hải cẩu. Có những chú ngựa non để cưỡi, và lũ chim để săn mồi, Và những sự kiện xảy ra hàng ngày. Có chó sói, cáo, diều hâu và cú, Và hốc lớn để sư tử vùi mình trong đó. Có những hồ nước lặng êm và những chuồng thú bình yên. Nơi bò sát nghỉ ngơi và hổ dữ gầm lên. Còn có khỉ đầu chó đít đỏ sau lưng. Toàn bộ mục đích của một vườn bách thú được chăm sóc tử tế, Là đưa bạn đến với thế giới động vật quanh ta. (Ký tên) Sam Râu Xồm
Sam để bài thơ lên bàn làm việc của ông tổ trưởng. Sáng sớm hôm sau, trước giờ làm việc của nhân viên vườn bách thú rất lâu, Sam đã rời Philadelphia bằng máy bay. Louis và Serena cùng đi với cậu đến sân bay. Họ muốn vẫy chào tạm biệt. Họ cũng dự định sẽ từ giã Philadelphia ngay lúc đó và ngay tại đó để bay về Montana. Khi nhân viên hải quan trông thấy hai con chim trắng to trên đường băng, họ nhốn nháo cả lên. Người phụ trách tháp điều khiển đánh điện cấp báo cho những phi công đang lái máy bay tới. Cả đám thành viên của đội vận chuyển mặt đất từ các tòa nhà chạy ùa ra, lao về phía Louis và Serena để đuổi họ đi. Sam đang ngồi trên máy bay, bên cạnh cửa sổ, máy bay đang chuẩn bị cất cánh và cậu trông thấy tất cả. Louis chộp lấy kèn trôm-pét. "Chúng ta ra đi", chú thổi, "bay vào khoảng trời cao xanh hoang dã!" Những nốt nhạc vang vọng khắp sân bay và làm mọi người giật mình. "Ko-hoh! Ko-hoh!" gọi. Chú hạ trôm-pét xuống và bắt đầu chạy dọc theo đường băng. theo sau. Vừa lúc đó, máy bay của Sam cũng chạy ngược chiều gió chuẩn bị cất cánh. Đôi thiên nga chạy bên cạnh. Họ ở trên không trung trước cả máy bay, và bay rất nhanh. Sam ngồi bên cửa sổ vẫy chào.
Huân Chương Cứu Mạng của Louis lấp lánh trong nắng sớm mai. Chiếc máy cbay gầm rú và bắt đầu bay lên. Louis và Serena cũng bay nhanh lên cao. "Tạm biệt, Philadelphia!" Louis nghĩ thầm. "Tạm biệt Hồ Chim! Tạm biệt nhà hàng đêm!" Với tốc độ rất lớn, máy bay đã đuổi kịp đôi thiên nga. Họ bắt đầu tụt lại đằng sau. Họ bay về hướng tây theo chiếc máy bay một lát. Rồi Louis ra hiệu cho Serena là chú sắp đổi hướng. Chú nghiêng cánh sang bên trái và rẽ ngoặt về phía nam. "Chúng ta sẽ bay về nhà theo tuyến đường phương nam và không việc gì phải vội vã cả", chú tự nhủ. Và họ đã làm như vậy. Họ bay về phương nam qua Maryland và Virginia. Họ bay về phương nam qua Carolinas. Họ nghỉ lại một đêm ở Yemassee và trông thấy những cây sồi cổ thụ rêu bám đầy cành. Họ đi thăm những vùng đầm lầy rộng lớn ở bang Georgia, ngắm những bầy cá sấu và lắng nghe tiếng chim nhạn hót. Họ bay ngang qua Florida và lưu lại vài ngày ở một nhánh sông lầy lội nơi có những chú chim bồ câu gù gù trên những cây tuyết tùng và những con thằn lằn bé xíu nằm cuộn tròn sưởi nắng. Họ rẽ về hướng tây tới Louisiana. Rồi họ rẽ sang hướng bắc về phía nhà của họ ở thượng lưu vùng hồ Đá Đỏ. Một chuyến hồi hương thật vinh quang! Khi rời Montana, Louis không một xu dính túi. Bây giờ chú đã giàu có rồi. Khi ra đi, không một ai biết đến chú. Bây giờ chú đã nổi tiếng rồi. Khi ra đi, chú còn là một kẻ cô độc trên thế giới này. Giờ đây bên cạnh chú là người vợ - cô thiên nga mà chú yêu. Chiếc huân chương vẫn ở cổ chú, chiếc trôm-pét quý giá đung đưa trong gió, số tiền mà chú đã phải vất vả mới kiếm được nằm yên trong túi tiền. Chú đã hoàn thành mục đích mà chú đề ra. Tất cả chỉ trong vỏn vẹn có mấy tháng ngắn ngủi. Tự do mang lại cảm giác thật kỳ diệu! Tình yêu thật tuyệt vời!

Chương 20

Billings

Vào một ngày tháng giêng trong xanh, Louis và Serena về đến nhà ở vùng hồ Đá Đỏ. Họ nhanh chóng tìm thấy các thành viên trong gia đình - bố mẹ và các anh chị em họ - giữa hàng ngàn những con chim nước khác. Đó là một cuộc đoàn tụ ồn ào. Mọi người đều muốn lên tiếng chào mừng ngay lập tức. Ko-hoh, Ko-hoh, Ko-hoh! Cuối cùng những kẻ lạc đàn cũng đã trở về. Bố Louis, ông thiên nga già, đọc một bài phát biểu hoa mỹ, khá dài nhưng chân thành. Louis nâng kèn lên và chơi bài "Không có nơi nào giống như quê hương. ại quê hương, quê hương, quê hương ngọt ngào!" Lũ chim nước xì xào bàn tán rất nhiều về chuyện Louis đã thuyết phục được Serena trở thành vợ của chú. Mọi người đều chúc mừng đôi vợ chồng hạnh phúc. Và tất cả các anh chị của Louis và Serena xúm quanh và xem những đồ đạc của Louis. Những vật dụng đời thường của chú gây cho họ ấn tượng mạnh. Họ thích Huân Chương Cứu Mạng, họ say mê tiếng kèn trôm-pét, và họ nôn nóng muốn xem số tiền trong túi tiền. Nhưng Louis không mở túi ra. Thay vì vậy chú kéo bố mẹ tách riêng ra một bên. Cả ba cùng nhau bước lên bờ, Louis tháo túi tiền ra khỏi cổ, cúi đầu chào và đưa nó cho thiên nga bố. Tất cả số tiền là bốn ngàn bốn trăm hai mươi đô la và bảy mươi tám xu. Rồi Louis lấy bảng ra và viết một bức thư ngắn cho người chủ cửa hiệu nhạc cụ ở Bilings để khi đến đó bố chú sẽ đưa cho ông ta. Bức thư có nội dung: Gửi người chủ cửa hàng nhạc cụ ở Billings: Kèm theo thư này ngài sẽ thấy bốn ngàn bốn trăm hai mươi tám đô la và bảy mươi tám xu. Số tiền đó để trả cho chiếc trôm-pét và những thiệt hại của cửa hàng. Xin lỗi vì tất cả những phiền phức đã gây ra cho ngài. Thiên nga bố không biết đếm, và ông cũng không biết đọc, nhưng ông cầm lấy túi tiền và đeo nó vào cổ. Ông cảm thấy chắc chắn rằng giờ đây ông có thể trả món nợ ăn trộm chiếc trôm-pét ngày nào.
- Tôi sẽ đi, - ông nói với vợ. - Tôi sẽ khôi phục lại danh dự của tôi. Tôi sẽ trở lại Bilings, nơi tôi đã phạm tội - một thành phố lớn, đông đúc dân cư.
- Trước đây cả nhà cũng đã được nghe điều đó rồi. - Bà vợ nhận xét. - Hãy mang tiền và thư đến Bilings nhanh đến hết mức ông có thể bay. Và khi ông tới đó, xin hãy vì Chúa mà cẩn thận! Người chủ cửa hàng nhạc cụ có súng. Ông ta sẽ nhớ rằng lần trước một con thiên nga đã cướp ở cửa hàng của ông ta! Vì vậy hãy tự lo cho bản thân! ông đang dấn thân vào một việc nguy hiểm đấy.
- Nguy hiểm là cái đinh! - Thiên nga chồng nói. - Nguy hiểm là cái đinh! Tôi chào đón nguy hiểm và phiêu lưu. Tên đệm của tôi cũng là Nguy Hiểm. Tôi sẽ liều mạng để khôi phục lại danh dự của tôi và dành lại phẩm chất lịch sự của tôi. Tôi sẽ trả hết nợ và lau sạch vết nhơ đã bôi nhọ tên tuổi tôi. Tôi sẽ không bao giờ còn phải xấu hổ về chuyện ăn trộm và việc làm sai trái nữa. Tôi sẽ...
- Nếu ông không thôi ba hoa, - bà vợ nói, - thì ông sẽ không đến được Louis trước khi cửa hàng đóng cửa đâu.
- Bà nói phải, như thường lệ, - thiên nga chồng nói. Ông sửa lại túi tiền và bảng để bay đi. Rồi ông cất cánh bay lên không trung và hướng về phía Bắc, bay cao, bay nhanh. Vợ và con trai ông ta đứng dõi nhìn theo cho đến khi ông đã khuất dạng.
- Thật đúng là một lão thiên nga kỳ cục! - Bà nói. - Con có một người cha tốt, Louis ạ. Mẹ hy vọng sẽ không có điều gì xảy ra với bố con. Nói thật với con, mẹ thấy lo lo.
Thiên nga bố bay cao và bay nhanh. Khi thấy những ngôi nhà thờ, nhà máy, cửa hàng và nhà cửa ở Billings, ông lượn một vòng rồi bắt đầu đáp xuống, thẳng hướng cửa hàng nhạc cụ. "Đã đến lúc của mình rồi", ông tự nhủ, "khoảnh khắc dành lại tính trung thực của mình đã ở trong tầm tay. Chẳng mấy chốc mình sẽ thoát khỏi nợ nần, thoát khỏi bóng mây u ám của sự hổ thẹn, mất danh dự và bao trùm lên cuộc sống của mình trong suốt bao tháng trời". Những người đứng dưới đất đã trông thấy thiên nga. Một trong những người bán hàng của cửa hàng nhạc cụ đang đứng ngay cạnh cửa sổ mặt tiền và nhìn ra đường. Khi trông thấy con chim trắng to bay tới gần, anh ta la lên với người chủ tiệm: "Con chim lớn đang tới gần. Hãy lấy súng của ông ra!" Chủ tiệm chộp lấy khẩu súng ngắn và chạy bổ ra lối đi. Thiên nga bay là là từ trên trời xuống, hướng thẳng tới cửa hiệu. Chủ tiệm nâng súng lên. Ông ta nhả đạn cả hai nòng thành một tràng liên tục. Thiên nga bố cảm thấy đau nhói bên vai trái. Những ý nghĩ về cái chết ùa về tâm trí ông. Ngoái lại phía sau, ông thấy một giọt máu đỏ tươi loang trên ngực. Nhưng ông vẫn bay thẳng tới trước mặt người chủ tiệm. "Kết cục đã gần kề", ông tự nhủ. "Mình sẽ chết trong khi đang làm nhiệm vụ. Mình chỉ còn sống được một lát nữa thôi. Ông chủ tiệm với sự điên rồ của ông ta, đã tặng cho mình một vết thương trí mạng. Từ tĩnh mạch của mình, máu đỏ chảy xuống thành dòng. Sức lực mình đã cạn kiệt. Nhưng ngay cả trong giờ phút gần kề cái chết, mình cũng sẽ trả tiền cho chiếc trôm-pét. Xin chào từ biệt cuộc sống! Xin chào từ biệt thế giới tươi đẹp này! Xin chào từ biệt vùng hồ nhỏ ở miền Bắc! Vĩnh biệt những mùa xuân mà ta đã biết với tất cả niềm say mê và tình yêu! Vĩnh biệt người vợ thủy chung và những đứa con thương yêu! Ta, kẻ đang hấp hối, xin chào từ biệt cả nhà. Ta phải chết một cách duyên dáng theo cách mà chỉ một con thiên nga mới có thể làm được". Vừa suy nghĩ, thiên nga vừa hạ cánh đáp xuống lối đi, giơ túi tiền và chiếc bảng ra trước mặt người chủ tiệm đang kinh ngạc, và ngất xỉu khi trông thấy máu của chính mình. Ông nằm rũ gục bên lối đi trước mặt tất cả mọi người như một con thiên nga đã chết. Một đám đông xúm lại ngay tức thì. "Cái gì thế này?" Người chủ tiệm khom mình cúi xuống con chim và kêu lên. "Cái gì xảy ra ở đây thế này?" ông ta đọc nhanh bức thư ngắn trên chiếc bảng. Rồi ông mở toang miệng túi và bắt đầu lôi ra những tờ giấy bạc một trăm và năm mươi đô la. Một viên cảnh sát vội vã tới hiện trường và bắt đầu đẩy đám người lùi trở lại.
- Đứng lui ra! - Anh ta quát. - Con thiên nga đã bị thương. Hãy tránh chỗ cho nó thở!
- Nó chết rồi, - một cậu bé nói. - Con chim đó chết rồi.
- Nó không hề chết, - người bán hàng nói. - Nó hoảng quá đấy thôi.
- Hãy gọi một chiếc cứu thương! - Một phụ nữ trong đám đông kêu lên. Một dòng máu nhỏ đọng lại dưới cổ thiên nga già. Trông ông dường như không còn sinh khí. Vừa lúc đó người phụ trách cấm săn bắn xuất hiện.
- Ai đã bắn chú chim này? - ông hỏi.
- Tôi bắn, - chủ tiệm nói.
- Vậy thì ông bị bắt, - người phụ trách cấm săn bắn nói.
- Vì sao? - ông chủ tiệm hỏi.
- Vì đã bắn một con Thiên Nga Kèn. Đã có luật bảo vệ loài chim này. Ông không được phép bắn vào một con thiên nga!
- Hừ, - người chủ tiệm đáp, - ông cũng không thể bắt tôi được. Tôi đã từng biết con chim này. Nó là một tên ăn trộm. Nó mới chính là kẻ mà ông cần bắt. Trước kia nó đã từng đến đây, và nó đã ăn trộm của tôi một chiếc trôm-pét.
- Hãy gọi một chiếc xe cứu thương! - Người phụ nữ nọ kêu lên.
- Ông có cái gì ở trong tay vậy? - Viên cảnh sát hỏi. Người chủ tiệm vội vã nhét tiền vào túi và giấu cả bảng lẫn túi ra đằng sau.
- Nào, hãy đưa tôi xem! - Viên cảnh sát nói.
- Tôi cũng muốn xem, - người phụ trách việc cấm săn bắn nói.
- Tất cả chúng tôi đều muốn xem, - một ai đó trong đám đông kêu lên.
- Cái gì ở trong túi vậy?
Người chủ tiệm lúng túng đưa túi tiền và chiếc bảng cho người phụ trách việc cấm săn bắn. Ông này đứng thẳng người, đeo kính vào và đọc to những chữ viết trên bảng: "Gửi ông cửa hàng nhạc cụ ở Billings: Kèm theo thư này ngài sẽ thấy bốn ngàn bốn trăm hai mươi tám đô la và bảy mươi tám xu. Số tiền đó để trả cho chiếc trôm-pét và những thiệt hại của cửa hàng. Xin lỗi vì tất cả những phiền phức đã gây ra cho ngài". Khi nghe thấy số tiền, cả đám đông há hốc mồm. Mọi người bắt đầu bàn tán ngay tức thì.
- Hãy gọi một chiếc cứu thương! - Người phụ nữ nọ lại kêu lên.
- Tôi sẽ phải mang số tiền đó về sở cảnh sát, - viên cảnh sát nói. - Đây là một trường hợp phức tạp. Bất cứ cái gì dính líu đến tiền nong đều phức tạp hết. Tôi sẽ cầm số tiền này và giữ chúng an toàn cho đến khi vấn đề được ngã ngũ.
- Không, ông không thể làm thế được! - Người phụ trách cấm săn bắn nói. - Số tiền này thuộc về tôi.
- Tại sao? - Viên cảnh sát hỏi.
- Bởi vì... - Người phụ trách cấm săn bắn đáp.
- Bởi vì cái quái gì? - Viên cảnh sát cắt ngang.
- Bởi vì luật định rằng chim chóc thuộc quyền quản lý của tôi. Số tiền kia là của thiên nga. Vì thế, tôi sẽ giữ số tiền đó cho đến khi vấn đề được giải quyết.
- Ồ, không, không được! - Chủ tiệm giận dữ nói. - Số tiền đó thuộc về tôi. Điều đó đã được ghi rõ ngay trên chiếc bảng này. Bốn ngàn bốn trăm hai mươi đô la và bảy mươi tám xu này là của tôi. Không ai có thể lấy nó ra khỏi tay tôi được.
- Có đấy, - viên cảnh sát nói. - Tôi sẽ làm như vậy.
- Không, tôi chứ, - người phụ trách cấm săn bắn nói.
- Trong đám đông có ai là luật sư không? - Người chủ tiệm hỏi. - Chúng ta hãy giải quyết vấn đề ngay bây giờ và ngay ở đây.
Một người đàn ông dáng cao cao bước tới.
- Tôi là quan tòa Còi Xương, - ông ta nói. - Tôi sẽ làm rõ trường hợp này. Nào, giờ thì cho biết ai trông thấy con chim này bay tới?
- Tôi, - người bán hàng nói.
- Hãy gọi một chiếc cứu thương đi đã nào! - Người phụ nữ lại hét lên.
- Cháu cũng nhìn thấy con chim, - một cậu bé tên là Alfred Giọt Máu cho biết.
- Được rồi, - quan tòa nói. - Hãy tả lại chuyện đã xảy ra, chính xác những điều các người tận mắt trông thấy.
Người bán hàng lên tiếng trước.
- À, - anh ta nói. - tôi đang đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài thì trông thấy con thiên nga bay tới gần. Vì vậy tôi la lên. Ông chủ vội vào lấy súng và bắn, và con chim rơi xuống lối đi. Có một hoặc hai giọt máu.
- Anh có chú ý đến cái gì đặc biệt ở con chim này không? - Quan tòa Còi Xương hỏi.
- Nó mang theo tiền, - người bán hàng đáp. - Không phải thường xuyên người ta thấy một con chim có tiền, vì vậy tôi đã để ý đến điều đó.
- Được rồi, - quan tòa nói. - Bây giờ chúng ta hãy để cho Alfred Giọt Máu kể lại những gì chú bé đã thấy. Hãy tả lại những gì cháu đã thấy, Alfred!
- À, - chú bé nói, - cháu đang rất là khát và vì vậy cháu muốn đến một cửa hàng bánh kẹo và kiếm cái gì đó để uống.
- Hãy chỉ kể những điều cháu đã thấy thôi, Alfred ạ, - quan tòa nói. - Đừng bận tâm đến việc cháu khát như thế nào.
- Cháu đang đi dọc theo phố, - Alfred tiếp tục, - bởi vì cháu rất là khát. Vì vậy cháu đang đi dọc theo phố trên đường đến một cửa hàng bánh kẹo kiếm cái gì đó để uống, và ở đằng kia, từ trên trời ngay phía trên đầu cháu xuất hiện một con chim trắng to và nó đang hạ cánh đáp xuống khỏi bầu trời như thế này này. - Alfred dang hai tay ra và bắt chước con chim. - Và vì vậy khi nhìn thấy con chim lớn đó, cháu không còn nghĩ đến việc cháu đã khát như thế nào nữa, và chỉ ngay tức thì sau đó, con chim to kinh khủng này, quả thật nó to kinh khủng, đã nằm bên lối đi và nó đã chết và máu giây ra khắp mọi thứ và đó là cái mà cháu đã trông thấy.
- Cháu có chú ý đến điều gì đặc biệt ở con chim này không? - Quan tòa Còi Xương hỏi.
- Máu! - Alfred nói.
- Còn cái gì khác không?
- Không ạ, chỉ có máu thôi.
- Cháu có nghe thấy tiếng súng không?
- Không ạ, chỉ có máu thôi, - Alfred nói.
- Cảm ơn cháu! - Quan tòa nói. - Đó là tất cả sự việc.
Vừa lúc đó một tiếng còi bắt đầu rú lên - uoa, uoa, uoa. Một chiếc xe cứu thương bóp còi inh ỏi chạy dọc xuống phố. Nó dừng lại trước đám đông. Hai người đàn ông nhảy ra khỏi xe. Họ khiêng một cái cáng và đặt nó xuống bên cạnh chỗ thiên nga đang nằm. Thiên nga ngóc đầu dậy và nhìn xung quanh. "Mình đã ở ngưỡng cửa của cái chết", ông nghĩ, "và bây giờ mình cho rằng mình đã sống lại. Mình đang hồi sinh. Mình sẽ sống! Mình sẽ trở lại bầu trời bao la bằng đôi cánh to khỏe của mình. Mình sẽ lại được lướt duyên dáng trên những cái hồ trong thế giới này và lại được nghe tiếng ếch nhái kêu và đón nhận niềm vui thích do âm thanh trong đêm tối và sự xuất hiện của bình minh mang lại". Trong khi đang nghĩ ngợi về những ý tưởng vui vẻ đó, ông cảm thấy mình bị nâng bổng lên. Những người hộ lý cứu thương đeo lại bảng vào cổ cho thiên nga, nâng ông lên, nhẹ nhàng đặt ông lên cáng và khiêng vào chiếc xe cứu thương có đèn đỏ đang quay tròn trên nóc. Một người trùm chiếc mặt nạ thở ô xi lên đầu thiên nga và bơm ô xi cho ông. Họ lái xe tới bệnh viện, vừa đi vừa bóp còi inh ỏi. Ở đó họ đặt thiên nga lên giường và tiêm cho ông một mũi pennixilin. Một bác sĩ trẻ đến khám vết thương do bị trúng đạn. Bác sĩ nói vết thương chỉ ở ngoài da. Thiên nga không biết "ngoài da" nghĩa là gì, nhưng nghe thì có vẻ nghiêm trọng. Y tá xúm xít vây quanh. Một người đo huyết áp của thiên nga và viết cái gì đó lên một biểu đồ. Thiên nga bắt đầu cảm thấy khỏe khoắn trở lại. Ông cảm thấy dễ chịu khi được nằm trên giường, được các cô y tá săn sóc - trong số đó có một cô rất xinh. Bác sĩ rửa vết thương và đặt lên đó một miếng gạc. Trong khi đó, ở lối đi trước cửa hiệu nhạc cụ, quan tòa đang thông báo quyết định của mình.
- Căn cứ vào các chứng cớ, - ông ta nói một cách trang trọng, - tôi quyết định số tiền này thuộc về người chủ tiệm để bù lại chiếc trôm-pét đã mất và những thiệt hại của cửa hàng. Tôi giao thiên nga cho người phụ trách việc cấm săn bắn trông nom.
- Thưa ngài chánh án, - người phụ trách việc cấm săn bắn nói, - xin đừng quên rằng người chủ hiệu này phải bị bắt giữ vì đã bắn một con thiên nga hoang dã.
- Đó là một trường hợp bắt giữ sai, - vị quan tòa thông thái nói. - Người chủ hiệu bắn con chim này bởi vì ông ta sợ rằng cửa hàng của ông ta sẽ lại bị cướp. Ông ta không biết là con thiên nga này đang mang tiền đến để trả cho chiếc trôm-pét. Ông ta đã bắn trong trường hợp để tự vệ. Tất cả mọi người đều vô tội, thiên nga là một con chim trung thực, món nợ đã được trả, người chủ hiệu trở nên giàu có, và vụ này đã giải quyết xong.
Đám đông reo hò tán thưởng. Người phụ trách việc cấm săn bắn mặt mày sưng sỉa. Viên cảnh sát trông có vẻ ủ rũ. Còn người chủ tiệm thì nở nang từng khúc ruột. Ông ta là một người hạnh phúc. Ông ta cảm thấy rằng công lý đã được thực hiện.
- Tôi có một thông báo, - ông ta nói. - Tôi sẽ chỉ giữ đúng số tiền trả cho chiếc trôm-pét bị lấy đi và thanh toán hóa đơn sửa chữa cửa hàng. Toàn bộ số tiền còn lại sẽ được sử dụng vào một mục đích tốt nếu tôi có thể nghĩ ra được một việc gì thích hợp. Có ai nghĩ được ra mục đích gì đáng để tiêu số tiền đó không?
- Đội quân cứu tế? - Một phụ nữ gợi ý.
- Không! - Chủ hiệu nói.
- Đội hướng đạo sinh? - Một chú bé đề xuất.
- Không! - Chủ hiệu nói.
- Hiệp Hội Bảo vệ quyền tự do của công dân Mỹ! - Một người đàn ông gợi ý.
- Cũng không, - chủ hiệu nói. - Chưa có ai nghĩ ra được một tổ chức nào thích hợp để tôi tặng số tiền này cả.
- Thế còn Hiệp Hội Audubon thì sao? - Một ông người bé nhỏ có cái mũi khoằm như mỏ chim hỏi.
- Hay quá!
- Ông nghĩ được đấy! - Chủ hiệu kêu lên. - Một con chim đã mang lại điều tốt lành cho tôi, và bây giờ tôi muốn làm điều gì đó cho chim chóc. Hiệp Hội Audubon bảo vệ chim chóc. Tôi muốn số tiền này được dùng để giúp đỡ chim chóc. Có những con chim gặp khó khăn thực sự. Chúng đang đối mặt với sự tuyệt chủng.
- Tuyệt chủng là gì vậy? - Alfred Giọt Máu hỏi. - Có nghĩa là bốc mùi hôi phải không ạ?
- Tất nhiên là không phải, - chủ hiệu nói. - Tuyệt chủng là điều xảy ra khi một loài đang bị tuyệt diệt dần - khi loài đó không còn tồn tại nữa bởi vì các loài khác không thích chúng. Giống như là chim bồ câu đưa thư, chim cưu hay khủng long ấy.
- Thiên Nga Kèn gần như tuyệt chủng rồi, - người phụ trách việc cấm săn bắn nói. - Con người tiếp tục săn bắn chúng, giống như ông chủ hiệu điên rồ này. - Nhưng giờ đây chúng đang trở về.
Ông chủ hiệu chằm chằm nhìn người phụ trách cấm săn bắn chim.
- Tôi khẳng định rằng chúng đang trở lại, - ông ta nói. - Chú thiên nga vừa mới đây đã trở lại Billings với bốn ngàn bốn trăm hai mươi đô la và bảy mươi tám xu và đưa tất cả cho tôi. Tôi thấy đó là một sự trở lại rất hay. Tôi không thể tưởng tượng ra nổi nó kiếm ở đâu ra tất cả chừng ấy tiền. Điều đó hẳn là ngộ lắm.
Người chủ tiệm quay vào cửa hàng của ông ta, viên cảnh sát đi về sở cảnh sát, quan tòa đi đến tòa án, người phụ trách cấm săn bắn đi dọc xuôi xuống phố về phía bệnh viện, và Alfred Giọt Máu vẫn còn đang khát nước, tiếp tục đi đến cửa hàng bánh kẹo. Tất cả đám người còn lại tản đi chỗ khác. Ở bệnh viện, thiên nga nằm yên trên giường, miên man với những suy nghĩ tươi vui. Ông cảm thấy lòng tràn ngập sự biết ơn vì được sống và thấy nhẹ nhõm vì đã trả hết nợ. Trời đã tối. Rất nhiều bệnh nhân trong bệnh viện đã đi ngủ. Một cô y tá đi vào phòng thiên nga để mở cửa sổ ra. Mấy phút sau khi cô quay lại để lấy nhiệt độ và chải lưng cho thiên nga thì trên giường trống không - căn phòng vắng ngắt. Thiên nga đã bay qua cửa sổ, xoải rộng cánh và bay về nhà trong vòm trời đêm lành lạnh. Ông bay suốt đêm, qua hết ngọn núi này đến ngọn núi khác và khi trời vừa hửng sáng thì ông về đến nhà, vợ ông đang đợi.
- Thế nào? - Thiên nga vợ hỏi.
- Tốt đẹp cả, - ông nói. - Một cuộc phiêu lưu lạ thường. Tôi bị người ta bắn, đúng như bà dự đoán. Người chủ tiệm chĩa súng vào tôi và bắn. Tôi cảm thấy đau nhói ở vai trái - bên vai mà tôi luôn luôn cho rằng đẹp hơn vai bên kia. Máu từ vết thương của tôi phun ra như suối, và tôi duyên dáng rơi xuống lối đi, nơi tôi trao trả số tiền và vì thế đã lấy lại được danh dự và lòng tự trọng của tôi. Tôi đã ở bên ngưỡng cửa của cái chết. Một đám đông tụ tập lại. Máu tôi rơi khắp nơi. Tôi ngất đi và nằm trước mặt tất cả mọi người với vẻ trang nghiêm. Cảnh sát kéo tới - có đến hàng tá. Những người phụ trách việc cấm săn bắn kéo đến đông nghịt và xảy ra một cuộc tranh cãi kinh khủng về vấn đề tiền bạc.
- Làm sao mà ông biết được tất cả những điều đó nếu ông đang ngất xỉu? - Thiên nga vợ hỏi.
- Mình thân yêu ạ, - thiên nga chồng nói, - tôi mong là mình đừng có ngắt lời tôi như vậy khi tôi đang kể về chuyến đi của tôi. Khi thấy tình trạng trầm trọng của tôi, một ai đó trong đám đông đã gọi xe cứu thương, người ta chở tôi vào bệnh viện và đặt tôi nằm lên giường. Tôi nằm đó trông thật đẹp, cái mỏ đen của tôi tương phản với những tờ giấy trắng như tuyết. Các bác sĩ và y tá đã chăm sóc và an ủi tôi trong những giờ phút đau đớn và khổ sở. Bây giờ mình có thể đánh giá xem vết thương của tôi trầm trọng đến mức nào khi tôi cho mình hay là một trong các bác sĩ khám cho tôi nói rằng vết thương của tôi ở ngoài da.
- Theo tôi, vết thương của ông trông không đến nỗi nặng lắm, - thiên nga vợ nói. - Tôi nghĩ là ông chỉ bị xước da thôi. Nếu vết thương nặng, ông sẽ không bay về sớm như vậy được. Dù sao đi nữa, vết thương ngoài da hay là không, tôi rất mừng vì ông đã trở về an toàn. Tôi luôn nhớ ông mỗi khi ông vắng nhà. Tôi cũng không biết tại sao nữa nhưng sự thể là như vậy.
Vừa nói, thiên nga vợ vừa vươn đầu qua cổ chồng và củng nhẹ một cái. Rồi họ cùng ăn sáng và tìm một chỗ nước chưa đóng băng trong hồ để bơi. Thiên nga chồng tháo miếng gạc ra và ném đi. 
Chương 21

Mùa xuân xanh tươi

Louis và Serena càng ngày càng yêu nhau hơn. Khi mùa xuân về, họ bay về phương bắc, Louis đeo trôm-pét, bảng, bút phấn và huân chương của chú, còn Serena không đeo một thứ gì cả. Giờ đây không còn phải làm việc và kiếm tiền, Louis cảm thấy vô cùng nhẹ nhõm. Chú cũng sẽ không còn phải đeo túi tiền ở cổ nữa. Đôi thiên nga bay nhanh lên cao, cách mặt đất khoảng mười ngàn phút. Cuối cùng chúng bay đến cái hồ nhỏ miền đất hoang nơi Louis ra đời. Điều này là mơ ước của chú - cùng với người mình yêu trở lại vùng đất ở Canađa nơi lần đầu tiên chú được trông thấy ban mai. Chú đưa Serena bơi từ đầu này đến đầu kia của hồ và quay ngược lại. Chú chỉ cho cô xem cái hòn đảo tí hon nơi mẹ chú đã xây tổ. Chú chỉ cho cô xem khúc gỗ nơi Sam Râu Xồm đã ngồi khi Louis kéo dây giày của cậu ấy vì chú không thể kêu "beep". Serena vô cùng vui thích. Họ đang yêu. Trời đã sang xuân. ếch nhái thức dậy sau một giấc ngủ dài. Rùa tỉnh giấc sau cơn mơ màng. Sóc chuột cảm thấy làn không khí ấm áp, dịu nhẹ và dễ chịu thổi qua rừng cây giống y như cái mùa xuân khi bố mẹ Louis đã đến hồ làm tổ và sinh con. Mặt trời tỏa sáng rực rỡ khắp nơi. Băng giá đang tan; trên mặt hồ xuất hiện những hố băng. Louis và Serena cảm nhận được sự thay đổi của thế giới, họ xao động trước cuộc sống mới với niềm say mê và hy vọng. Có mùi vị của không khí, của đất trở mình thức dậy sau mùa đông dài giá lạnh. Cây cối đâm chồi nảy lộc, chồi nhú to dần lên. Một thời kỳ tốt đẹp hơn, dễ sống hơn đang đến gần. Một đôi vịt trời bay tới. Một chú chim sẻ cổ trắng bay đến và hót vang. "Ôi Canađa, Canađa, Canađa ngọt ngào!". Serena chọn một cái hang chuột xạ để xây tổ. Nơi ấy ở độ cao vừa phải so với mặt nước. Lũ chuột xạ đã trát tổ bằng bùn và cành cây. Louis đã hy vọng rằng vợ chú có thể quyết định xây tổ ở cùng nơi trước đây mẹ chú đã xây, nhưng giống cái bao giờ cũng đầy những ý tưởng; họ rất thích làm theo cách riêng của mình, và Serena biết điều cô đang làm. Khi thấy cô bắt đầu xây tổ, Louis hoan hỉ đến nỗi chú thực sự không quan tâm đến việc nó ở đâu nữa. Chú nâng kèn lên và thổi đoạn đầu một bài hát có từ ngày xưa. "Thật vui sướng khi lập gia đình, xây – xây - xây dựng gia đình..." Rồi chú giúp cô tha mấy cọng cỏ khô về. Dù trời mưa hay nắng, lạnh giá hay ấm áp, mỗi ngày trôi qua đều là một ngày hạnh phúc đối với đôi thiên nga.
Đúng ngày đúng tháng, Serena đẻ trứng và ấp nở lũ thiên nga con - tất cả có bốn chú. Âm thanh đầu tiên mà bầy thiên nga con được nghe là những âm thanh to vang và trong trẻo phát ra từ chiếc kèn trôm-pét của bố chúng. "Ôi mùa xuân nảy lộc đâm chồi", chú chơi, "Bờ hoang vu, rừng vắng lặng không người..." ở cái hồ nhỏ vắng vẻ trong khu rừng miền bắc, cuộc sống thật vui vẻ, nhộn nhịp và ngọt ngào. Lâu lâu Sam Râu Xồm lại qua thăm một lần và họ lại có những giờ phút vui vẻ thú vị bên nhau. Louis không bao giờ quên nghề cũ và bạn bè cũ của chú, cũng không quên lời hứa của mình với ông tổ trưởng tổ coi sóc chim muông ở Philadelphia. Năm tháng trôi qua, cứ mỗi khi mùa xuân đến là chú và Serena lại quay trở lại hồ, làm tổ và sinh con. Và hàng năm, vào độ cuối hè, khi họ đã thay lông và lông vũ đã mọc trở lại, và khi bầy thiên nga con đã sẵn sàng tập bay, Louis đưa cả gia đình làm một chuyến du ngoạn dài đầy thú vị ngang qua nước Mỹ. Trước tiên chú đưa họ đến trại Kookooskoos, nơi chú đã cứu Gọt Vỏ Táo thoát chết và được thưởng huân chương. Vào mùa này trại đã đóng cửa, nhưng Louis thích thăm lại nơi đó và thơ thẩn dạo quanh, nhớ về bọn trẻ và nhớ lại chuyện chú đã kiếm được một trăm đô la đầu tiên trong đời bằng cách làm người thổi kèn hiệu như thế nào. Rồi bầy thiên nga lại bay đến Boston, nơi người chủ Thuyền Thiên Nga luôn nồng nhiệt đón mừng chú. Louis đánh bóng chiếc kèn của mình, lau sạch vết nước bọt đi và lại bơi đằng trước những chiếc thuyền, chơi bài "Hãy chèo con thuyền của bạn", và dân chúng ở Boston nghe thấy những âm thanh quen thuộc từ chiếc trôm-pét của thiên nga và sẽ tụ tập lại ở Công Viên. Rồi chủ thuyền mời Louis và Serena nghỉ lại một đêm ở khách sạn Ritz, trong khi bầy thiên nga con ngủ trên hồ, được chủ thuyền canh chừng. Serena thiết tha yêu mến khách sạn Ritz. Cô ăn hàng chục chiếc bánh săng đuých kẹp rau cải xoong, ngắm nghía mình trước gương soi và bơi trong bồn tắm. Và trong khi Louis đứng nhìn qua cửa sổ ngắm Công Viên ở bên dưới thì Serena đi loanh quanh trong nhà, bật và tắt đèn để tiêu khiển. Rồi cả hai leo vào bồn tắm và đi ngủ.
Từ Boston, Louis đưa gia đình đến vườn bách thú Philadelphia và chỉ cho lũ con xem Hồ Chim. Ở đây chú được ông tổ trưởng tổ coi sóc chim muông đón tiếp rất nồng hậu. Nếu vườn bách thú cần một con Thiên Nga con để bổ sung cho bầy chim nước ở đó, Louis sẽ tặng một chú Thiên Nga con đúng như chú đã hứa. Những năm về sau, Philadelphia cũng là nơi họ gặp Sam Râu Xồm. Sam xin việc ở Vườn Bách Thú ngay khi cậu vừa đủ tuổi đi làm. Cậu và Louis luôn có những giờ phút vui vẻ khi họ gặp nhau. Louis sẽ lấy bảng và họ trò chuyện rất lâu về những ngày xưa. Sau khi đến thăm Philadelphia, Louis sẽ cùng gia đình bay về phương nam để có thể trông thấy miền Xavan rộng lớn nơi những con cá sấu Mỹ ngủ trong đầm lầy và những con kền kền Mỹ bay vun vút trên bầu trời. Và rồi họ sẽ quay về quê hương để nghỉ đông tại vùng hồ Đá Đỏ ở Montana, trong Thung Lũng Bách Niên thanh bình và đáng yêu, nơi loài Thiên Nga Kèn cảm thấy an toàn và không có gì phải sợ hãi. Cuộc sống của một con thiên nga thường vui vẻ và thú vị. Và tất nhiên cuộc sống của Louis đặc biệt lại càng thú vị hơn bởi vì chú là một nhạc sĩ. Louis chăm sóc chiếc trôm-pét của chú rất cẩn thận. Chú luôn giữ kèn sạch sẽ và ngồi hàng giờ để đánh cho nó bóng lên bằng chóp cánh của chú. Suốt đời chú cảm thấy biết ơn bố chú, ông thiên nga dũng cảm đã liều mạng để lấy cho chú chiếc trôm-pét mà chú vô cùng cần thiết. Mỗi khi nhìn Serena, chú nhớ lại rằng chính âm thanh của chiếc trôm-pét đã khiến cho cô bằng lòng làm vợ chú.
Thiên nga thường sống lâu. Năm này qua năm khác, cứ mỗi độ xuân về Louis và Serena lại quay về cái hồ nhỏ ở Canađa để sinh con đẻ cái. Ngày tháng trôi qua êm ả. Thường thường, vào lúc màn đêm vừa buông xuống, khi bầy thiên nga con đã buồn ngủ, Louis nâng kèn lên và thổi khúc báo giờ đi ngủ, cũng giống y như ngày xưa chú thường thổi ở trại. Những nốt nhạc buồn và đẹp trôi qua mặt nước tĩnh lặng và ngân vang trên vòm trời đêm. Vào một mùa hè, khi Sam Râu Xồm khoảng hai mươi tuổi, anh và bố đang ngồi trong lều của họ ở Canađa. Lúc đó là sau bữa ăn tối. Ông Râu Xồm ngồi đu đưa trên ghế, nghỉ ngơi sau một ngày dài ngồi câu cá. Sam đang đọc một cuốn sách.
- Bố ơi - Sam nói, - chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn nghĩa là gì?
- Làm thế nào mà bố biết được? - ông Râu Xồm đáp. - Bố chưa hề nghe thấy câu đó bao giờ.
- Nó có cái gì đó liên quan đến thỏ. - Sam nói. - ở đây nói rằng thỏ là một loài động vật chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn.
- Có thể có nghĩa là bẽn lẽn, - ông Râu Xồm nói. - Hoặc có thể có nghĩa là thỏ có thể chạy như ma. Cũng có thể có nghĩa là ngốc nghếch. Vào ban đêm, một con thỏ có thể ngồi ngay giữa đường cái, nhìn chòng chọc vào đèn pha đằng trước xe hơi và không bao giờ chạy đi, và vì thế rất nhiều con thỏ bị chẹt chết. Chúng thật ngốc nghếch.
- Thôi, - Sam nói, - con cho rằng để biết được chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn có nghĩa gì, cách duy nhất là xem từ điển.
- Chúng ta không có từ điển ở đây, - ông Râu Xồm nói. - Con phải đợi cho đến khi chúng ta quay về trang trại thôi.
Đúng lúc đó, ở bên hồ nơi bầy thiên nga đang sống, Louis nâng kèn lên và thổi khúc báo giờ đi ngủ để đàn con biết rằng ngày đã trôi qua. Gió thổi xuôi chiều, và âm thanh vang vọng qua đầm lầy. Ông Râu Xồm ngừng đu đưa ghế.
- Thật là ngộ! - ông nói. - Bố nghĩ là bố vừa mới nghe thấy tiếng kèn trôm-pét.
- Con không biết làm thế nào bố có thể nghe được, - Sam trả lời. - Trong khu rừng này chỉ có mỗi bố với con mà thôi.
- Bố biết vậy, - ông Râu Xồm nói. - Nhưng bố vẫn nghĩ là bố đã nghe thấy tiếng trôm-pét chính cống. Hoặc tiếng kèn hiệu.
Sam cười khoái chí. Anh không bao giờ kể cho bố nghe chuyện những con thiên nga sống ở vùng hồ cạnh đó. Anh giữ bí mật ấy cho riêng mình. Khi đến hồ, anh luôn luôn đi một mình. Anh thích như vậy. Và bầy thiên nga cũng thích như vậy.
- Bạn Louis của con ra sao rồi? - ông Râu Xồm hỏi. - Louis là một nhạc công trôm-pét. Con không nghĩ là chú ta có thể ở đâu đó quanh đây chứ?
- Có khi thế cũng nên, - Sam nói.
- Gần đây con có nhận được tin gì của chú ta không?
- Không ạ, - Sam đáp. - Bạn ấy không viết thư nữa. Bạn ấy hết tem rồi và không có tiền để mua tem.
- Ồ, - ông Râu Xồm nói. - Toàn bộ những chuyện về con chim đó thật là kỳ quặc - không bao giờ bố hiểu hết được những chuyện đó.
Sam liếc nhìn bố và thấy mắt ông nhắm nghiền. Ông Râu Xồm đã ngủ say. Hầu như không một âm thanh nào phá vỡ sự tĩnh lặng của rừng cây. Sam cũng mệt và buồn ngủ. Anh lấy nhật ký ra, ngồi xuống cạnh bàn và viết dưới ánh sáng của ngọn đèn dầu. Anh viết: "Đêm nay mình nghe thấy tiếng kèn của Louis. Bố mình cũng nghe thấy. Gió thổi xuôi chiều, và đúng vào lúc màn đêm buông xuống mình đã nghe thấy tiếng kèn báo giờ đi ngủ. Trên thế giới này không gì làm mình thích bằng tiếng trôm-pét của một con thiên nga. Chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn có nghĩa là gì nhỉ?" Sam cất sổ đi. Anh cởi quần áo và chui vào giường. Anh nằm yên, băn khoăn tự hỏi không biết chỉ ra ngoài lúc hoàng hôn có nghĩa là gì. Chưa đầy ba phút anh đã ngủ say. Trên cái hồ nhỏ nơi đàn thiên nga đang sống, Louis cũng cất kèn trôm-pét đi. Bầy thiên nga con rúc vào cánh mẹ. Bóng tối bao trùm rừng cây, đồng cỏ và đầm lầy. Chim lặn gavia cất lên những tiếng kêu đêm hoang dã. Khi Louis nghỉ ngơi và chuẩn bị đi ngủ, tâm trí chú tràn ngập những ý tưởng về chuyện được sống trên trái đất tươi đẹp như thế này chú mới may mắn làm sao, giải quyết được những vấn đề của mình bằng âm nhạc chú mới may mắn làm sao, và thật vui sướng biết bao khi trước mặt là một đêm thanh bình nữa, và một ngày mai trong lành với ánh sáng ban mai sẽ bừng lên.

Hết




- MỤC KHÁC
giới tính l Phần mềm l Xem bói l girl xinh vn l Game Hot l girl xinh l GIẢI TRÍ l Trà sữa l mẹo vặt l thủ thuật l sms l Cẩm nang l nhạc chuông l Đọc Truyện
Hosting By Xtgem.com
U-ON bonba9x